Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 quy định về tội hành hạ người khác. Tuy nhiên, vẫn nhiều người có lẽ chưa hiểu rõ về những quy định trên. Vì vậy, Luật Dương Hải Đăng sẽ giúp bạn làm rõ hơn về vấn đề này trong bài viết dưới đây nhé!
Quy định pháp luật về tội hành hạ người khác
Tội hành hạ người khác theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
“Điều 140. Tội hành hạ người khác
1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc vào mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên.”
Hành hạ người khác là gì?
Hành hạ người khác được hiểu là hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình, lệ thuộc về quan hệ xã hội, quan hệ cộng tác hoặc về tôn giáo.
Các yếu tố cấu thành tội hành hạ người khác
Những yếu tố cấu thành tội hành hạ bao gồm mặt khách quan, khách thể, mặt chủ quan và chủ thể. Cụ thể như sau:
Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
* Về hành vi: Có hành vi đối xử tàn ác đối với người lệ thuộc mình (lệ thuộc vào người có hành vi phạm tội), cụ thể là:
- Đối xử tàn ác, được hiểu là hành vi gây ra sự đau đớn về thể xác (và tinh thần) đối với nạn nhân dưới các hình thức như đánh đập, bỏ đói, có hoặc không kèm theo việc chửi mắng thậm tệ.
Tuy nhiên việc đối xử tàn ác phải chưa đạt đến mức độ nghiêm trọng để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
- Một điểm khác cần chú ý là việc đối xử tàn ác thông thường phải lặp đi lặp lại và kéo dài trong một thời gian nhất định.
Đây là tội có yếu tố định tính chứ không có yếu tố định lượng. Mức độ đối xử tàn ác để được coi là phạm tội phụ thuộc vào sự đánh giá mang tính chủ quan của người áp dụng pháp luật trên cơ sở hậu quả những hành vi tàn ác của người phạm tội lặp đi lặp lại dài ngày, vào việc xâm phạm đến tập quán, phong tục, và sự lên án của dư luận thông qua các tổ chức xã hội, của các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, nhận thức về vấn đề này mỗi nơi một khác nên dẫn đến việc áp dụng pháp luật tuỳ tiện, không thống nhất.
* Dấu hiệu khác: Người bị hại phải là người có quan hệ lệ thuộc đối với người phạm tội về quan hệ xã hội, công tác, hoặc về tôn giáo.
- Lệ thuộc về quan hệ xã hội: Thông thường là các mối quan hệ lệ thuộc sau đây: giữa thầy giáo với học sinh; giữa thầy thuốc với người bệnh, giữa cán bộ quản giáo đối với phạm nhân; giữa chủ với người làm thuê,…
- Lệ thuộc về quan hệ cộng tác: là mối quan hệ lệ thuộc giữa nhân viên với thủ trưởng, giữa cấp trên với cấp dưới trong các cơ quan, tổ chức.
- Lệ thuộc về tôn giáo: Là mối quan hệ giữa những người có chức sắc trong các tổ chức tôn giáo đối với các tín đồ của tôn giáo đó.
Lưu ý: Người bị hại phải không có mối quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ gia đình như vợ, chồng, ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, người có công nuôi dưỡng đối với người phạm tội. Trường hợp người bị hại có mối quan hệ hôn nhân hoặc gia đình đối với người phạm tội thì cấu thành tội ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự)
Khách thể
Hành hạ người khác là hành vi đối xử tàn ác như gây đau đớn về thể xác, đè nén, áp bức về tinh thần người bị lệ thuộc. Hành vi phạm tội xâm phạm đến sức khỏe của người khác (gồm sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần).
Như vậy, khách thể của tội phạm là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền được Nhà nước bảo hộ về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Mặt chủ quan
Tội hành hạ người khác được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp. Người phạm tội biết rõ mức độ nguy hiểm của hành vi mà mình gây ra, nhận thức rõ hành vi đó có thể gây tổn hại đến thể chất và tinh thần người lệ thuộc. Tuy nhiên người phạm tội không mong muốn cho hậu quả người lệ thuộc bị tổn hại về sức khỏe hay tinh thần xảy ra nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả đó xảy ra.
Chủ thể
Chủ thể thực hiện tội phạm này là bất kì người nào giữ vai trò là người được lệ thuộc, đủ 16 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ nhất, chủ thể thực hiện tội phạm có thể là bất kì người nào được nạn nhân lệ thuộc, chủ thể có thể là cá nhân thực hiện tội phạm nhưng cũng có thể là đồng phạm. Thậm chí, trên thực tế, có nhiều vụ án phạm tội có tổ chức, có sự liên kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm. Các đồng phạm phân rõ vai trò của mình như người thực hành (người trực tiếp thực hiện tội phạm hành hạ người khác), người tổ chức (cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm, phân công nhiệm vụ cho các thành viên), người xúi giục (người dụ dỗ, thúc đẩy người thực hành thực hiện hành vi hành hạ người khác) và người giúp sức (tạo ra điều kiện về tinh thần, vật chất để người thực hành thực hiện việc hành hạ người khác).
Thứ hai, chủ thể phải là người từ đủ 16 tuổi. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi loại tội. Khoản 2 Điều 12 quy định một số tội mà người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng không có tội hành hạ người khác tại Điều 140. Như vậy, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội hành hạ người khác.
Thứ ba, người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tức là người đó phải có cả năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Nếu người đó phạm tội trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực hình sự thì có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự.
Hình phạt của tội hành hạ người khác
Mức hình phạt của tội phạm này được chia thành hai khung, cụ thể như sau:
a) Khung một (khoản 1)
Có mức hình phạt là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
b) Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ một năm đến ba năm.
Lưu ý: Bài viết này do các Luật sư thành viên CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG HẢI ĐĂNG thực hiện chỉ mang tính chất tham khảo và không nhằm mục đích thương mại. Các điều luật trong bài viết có hiệu lực thời điểm hiện tại(thực hiện bài viết) và có thể được sửa đổi/bổ sung.
Nếu có bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến nội dung trên hoặc vấn đề pháp lý khác, quý khách vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua số hotline: 0965.35.8118 hoặc email: luatduonghaidang@gmail.com để được giải đáp.