Khởi tố vụ án hình sự là quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm duy trì trật tự và công lý, không phụ thuộc vào ý muốn cá nhân và không ai có thể can thiệp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, pháp luật quy định cho phép người bị hại lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. Bài viết dưới đây, Luật Dương Hải Đăng sẽ đưa đến cho bạn thông tin chi tiết về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại.
Khởi tố vụ án hình sự là gì?
Đó là những trường hợp mà hành vi phạm tội vừa xâm phạm trật tự xã hội, vừa xâm phạm đến thể chất, sức khỏe, danh dự của người bị hại. Những trường hợp này nếu khởi tố vụ án, lợi ích về mặt xã hội có thể không lớn mà còn có khả năng làm tổn thương thêm về mặt tinh thần cho người bị hại. Vì vậy, nhà làm luật đã xác lập một khả năng, điều kiện để người bị hại cân nhắc, quyết định có yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý về mặt hình sự đối với hành vi phạm tội hay không. Với quy định đó, nhà làm luật tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội thuận lợi để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra, hạn chế việc gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh thần, danh dự không cần thiết có thể có đối với người bị hại.
Quy định pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại.
“1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều luật của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết
So với quy định tại Điều 105 BLTTHS năm 2003 về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, quy định này có điểm mới là bổ sung thêm trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là một trong những tội khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Đồng thời, sửa đổi phạm vi về quyền rút yêu cầu khởi tố của bị hại. Nếu khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định người bị hại được rút yêu cầu khởi tố vụ án trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 không giới hạn thời điểm bị hại rút yêu cầu khởi tố, mà chỉ quy định “trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ”.
Ngoài ra, một quy định mới khác của BLTTHS năm 2015 về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại tiến bộ hơn BLTTHS năm 2003 là tại khoản 1 Điều 155 đã bỏ một tội được khởi tố theo yêu cầu người bị hại là tội “Xâm phạm quyền tác giả” (Khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định tội này chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại).
Hậu quả pháp lý khi bị hại rút đơn yêu cầu
Khoản 2, 3 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định hậu quả pháp lý khi người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố, cụ thể như sau:
- Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ;
- Trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì cơ quan tố tụng vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
- Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Căn cứ pháp lý
1. Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017;
2. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
Lưu ý: Bài viết này do các Luật sư thành viên CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG HẢI ĐĂNG thực hiện chỉ mang tính chất tham khảo và không nhằm mục đích thương mại. Các điều luật trong bài viết có hiệu lực thời điểm hiện tại(thực hiện bài viết) và có thể được sửa đổi/bổ sung.
Nguồn:
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, 2019
Nếu có bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến nội dung trên hoặc vấn đề pháp lý khác, quý khách vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua số hotline: 0965.35.8118 hoặc email: luatduonghaidang@gmail.com để được giải đáp.